Dưới đây là những thắc mắc của nhiều du khách về hành trình thám hiểm hang Sơn Đoòng.
Chuyến thám hiểm hang động và khu vực cắm trại
Nếu không đủ tiền đi tour, có thể tự khám phá hang Sơn Đoòng được không?
Bất cứ ai vào hang Sơn Đoòng hay tổ chức tham quan nơi này mà không có sự đồng ý của ban quản lý Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đều vi phạm pháp luật. Do đó, bạn chỉ có thể thám hiểm Sơn Đoòng thông qua Oxalis - công ty duy nhất được phép khai thác tour này. Hiện tại, đó là cách duy nhất.
Đi một mình có thể ghép đoàn không?
Mỗi tour tối đa là 10 du khách, bạn có thể ghép đoàn nếu đi một mình khi đăng ký với công ty cung cấp tour. Từ đó bạn làm quen mọi người, tạo nhóm để cùng trải nghiệm tuần thám hiểm hang ngầm với hướng dẫn viên, đội vận chuyển và các chuyên gia.
du lich, kham pha, hang son doong
Bên trong hang Sơn Đoòng là cả một hệ sinh thái và khí hậu hoàn toàn khác biệt so với bên ngoài. Ảnh: Ryan Deboodt.
Thời tiết trong hang động và rừng như thế nào?
Thời tiết có thể rất lạnh từ tháng 12 đến tháng 3 (8 -15 độ C) hoặc nóng bức trong khoảng tháng 6 - 8 (32-38 độ C). Nếu trời mưa, các con đường sẽ trơn trượt và đầy bùn lầy. Tuy nhiên, nhiệt độ trong hang duy trì ở mức ổn định 23 - 24 độ C và bạn nên mang theo một chiếc áo khoác. 
Đoàn sẽ phải đi bộ và leo núi bao xa?
Toàn bộ chuyến đi sẽ dài hơn 50 km, tuy nhiên con số này chỉ ước chừng vì bạn sẽ phải băng rừng, vượt núi và nhiều mỏm đá trong hang.
Có cần tự trang bị mũ bảo hiểm, dây an toàn hay các dụng cụ khám phá hang động không?
Vì đi theo tour nên công ty tổ chức sẽ cung cấp cho bạn toàn bộ dụng cụ thám hiểm hang động bao gồm mũ bảo hiểm, đai an toàn, dây, đèn pin đội đầu... Bạn chỉ mang theo một đèn pin nhỏ để đi lại tại khu cắm trại vào ban đêm.
Qua đêm và ăn uống như thế nào trong suốt chuyến?
Bạn được cung cấp lều, đệm mỏng và túi ngủ. Ngoài ra, bạn nên mang theo một chiếc gối nhỏ để có giấc ngủ thoải mái. Công ty tour sẽ phục vụ một thực đơn đa dạng và đầy đủ ở trong hang như thịt heo, bò, gà, cá, cơm và rất nhiều loại rau củ. Thực phẩm được bảo quản trong điều kiện an toàn vệ sinh tốt nhất. Du khách phải thông báo trước khi muốn đem thêm đồ ăn.
Lưu ý khi đóng gói hành lý
Nên mang trang phục nào để đi thám hiểm?
Bạn mang theo 3 bộ đồ làm bằng chất liệu mau khô. Trong đó một bộ dùng riêng cho thám hiểm hang và trekking (đi bộ đường dài) vì có thể bị ướt dọc đường. Một bộ quần áo khô mặc ở khu cắm trại và bộ cuối cùng để thay đổi. Nếu đi vào tháng 2 - 3, bạn cần mang thêm áo khoác để giữ ấm. 
Nên mang theo loại giày nào để đi suốt chuyến?
Đường đi khá hiểm trở, du khách sẽ lội nước ở rất nhiều chặng và leo qua các mỏm đá lớn. Do đó, nên chọn loại giày cao cổ có thể thoát nước một cách dễ dàng (tuyệt đối không dùng loại giày có chất chống thấm vì sẽ không thoát nước dẫn đến đôi giày của bạn sẽ nặng gấp nhiều lần so với bình thường).
Nếu bạn có một đôi giày quen dùng với độ bám tốt, hãy sử dụng nó. Du khách cần chắc chắn đôi giày có thể sử dụng trong 6 ngày thám hiểm để không phải dừng lại giữa đường. Nếu trường hợp bạn không tìm được giày đi rừng, công ty tổ chức có thể cho mượn loại giày cao cổ chuyên dụng (loại giày của đặc công) và bạn cần trang bị hai bộ lót giày cho êm chân.
Nên mang loại ba lô nào và có cần mang túi khô không?
Bạn nên mang một ba lô nhỏ đựng đồ dùng như máy ảnh, chai nước, các loại thuốc cá nhân. Đội phục vụ sẽ mang toàn bộ hành lý còn lại của bạn. Túi khô hay chống thấm không thật sự cần thiết vì bạn chỉ băng qua những con suối cạn ngang đầu gối.
 Để tới được hang và thám hiểm bên trong Sơn Đoòng, du khách phải đi qua nhiều sông suối. Ảnh: Việt Anh.
Để tới được hang và thám hiểm bên trong Sơn Đoòng, du khách phải đi qua nhiều sông suối. Ảnh: Việt Anh.
Nhà vệ sinh và việc tắm rửa
Đi vệ sinh như thế nào?
Tại mỗi khu vực cắm trại, đoàn sẽ chuẩn bị một nhà vệ sinh ủ phân vi sinh (dùng vỏ trấu để khử mùi hôi và phân huỷ nhanh). Gel rửa tay cũng có sẵn để du khách dùng trước bữa ăn và sau khi đi vệ sinh, tránh nhiễm bệnh.
Nên mang những đồ dùng cá nhân nào?
Bạn chỉ cần những đồ thường dùng như bình xịt chống côn trùng, xịt khử mùi, phấn rôm (dùng khi tới điểm cắm trại, tháo giày ra để tránh nước ăn chân), phấn chống nấm và xà bông hay dầu gội thân thiện với môi trường.
Trong hang có chỗ để tắm rửa không?
Bạn sẽ có chỗ để tắm rửa ở khu cắm trại Hang Én (đêm đầu và cuối). Ở các điểm cắm trại bên trong Sơn Đoòng cũng có chỗ tắm nhưng bạn phải đi xa hơn mới có nước. Du khách có thể mang theo một khăn tắm loại nhỏ để dùng trong chuyến đi.
Theo Hương Chi
Biên Giới Việt Nam và Trung Quốc
Biên Giới Việt Nam và Trung Quốc- Nguồn ảnh 
Phạm Cao Dương
Do thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc ta và luôn tuôn tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong bài này người viết trình bày một cách tổng quát vấn đề biên giới Việt – Trung qua các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, với nội dung gồm có ba phần: phần thứ nhất nói về tính cách phức tạp của biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc phần thứ hai nói về chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ của các triều đại Việt Nam ở miền biên giới này và phần thứ ba dành cho một số những cuộc tranh chấp điển hình. 
Tính cách phức tạp của vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc 
Khi tìm hiểu vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhận xét đầu tiên người ta có thể đưa ra là cho đến thời kỳ Pháp thuộc, giữa hai nước không có đường biên giới như người ta quan niệm ngày nay mà chỉ có những vùng biên giới mà thôi. Đặc tính này bắt nguồn không những từ thực tại địa lý ở nơi tiếp giáp giữa hai quốc gia mà còn do những yếu tố nhân văn, lịch sử và quan niệm về chính trị của các triều đại trị vì nữa. 
Trước hết là về địa lý. Giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc không có núi cao hay sông lớn có thể dùng làm ranh giới thiên nhiên. Những sông hay những núi được viện dẫn như những đường phân thủy chỉ là những đồi hay sông nhỏ, có khi chỉ được biết tới một cách mơ hồ và đã trở thành đầu mối của những tranh chấp. Điển hình là sự lẫn lộn hay cố tình lẫn lộn giữa sông Đổ Chú và một sông nhỏ khác ở thượng nguồn của sông Chảy trong vụ tranh chấp về biên dưới giữa hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ thuộc trấn Tuyên Quang của Việt Nam và phủ Khai Hóa thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc vào năm 1728. Cũng vậy, với các núi Xưởng Chì hay Diên Xưởng, núi Tụ Long mà người viết dám chắc là ngay cả các giáo sư sử địa hiếm người biết đến. Các rặng núi lớn có hình cánh cung ở phía đông của sông Hồng thay vì nằm ngang theo hướng tây – đông để làm ranh giới giữa hai nước lại xòe ra theo hình nan quạt và mở rộng về phía bắc cho sự xâm nhập từ phương bắc xuống. Nhiều sông của Trung Quốc lại có nguồn từ trên đất Việt Nam hay ngược lại. Tính cách núi liền núi, sông liền sông của địa lý chính trị ở biên giới Hoa Việt này không những đã làm cho việc ngăn chặn các cuộc xâm lăng qui mô của người Tàu từ phương bắc xuống trở thành vô cùng khó khăn cho người Việt, mà còn làm cho ranh giới giữa hai nước không bao giờ ổn định. Sự dời bỏ kinh đô Thăng Long của các vua Nhà Trần và của Ngô Văn Sở thời Tây Sơn trước sức tiến ban đầu của quân Mông Cổ và quân Nhà Thanh một phần là do yếu tố này. 
Về phương diện nhân văn, miền biên giới Việt – Trung không phải là nơi cư trú của người Việt hay người Tàu mà là của nhiều sắc dân thiểu số của các miền núi như Tày, Nùng, Thổ, Mán… Những dân này đã ở cả hai phía, nhiều khi ranh giới cư trú không rõ ràng. Nhiều nhóm đã từ Trung Quốc di cư xuống Việt Nam qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Những con số được ghi trong tác phẩm Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ của các soạn giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, xuất bản năm 1930 ở Hà Nội, dưới thời Pháp thuộc, có thể cho ta một khái niệm về tính cách thiểu số của người Việt cư ngụ ở miền này so với các dân miền thượng khác.
Trước hết là ở tỉnh Lạng Sơn. Trong số 85.300 dân của tỉnh này, người Kinh hay người Việt chỉ có 3.120 người tức 4%, trong khi con số người Thổ là 38.900 người hay 36%, người Nùng là 37.500 người hay 44%, và người Hoa là 3.800 hay 4%. Ở Cao Bằng, trên tổng số dân là 87.000 người, số người Kinh chỉ có 1.200 người hay 1,4%, còn người Thổ là 39.930 người hay 46%, người Nùng 38. 750 người hay 44%, còn lại là người Tàu. Còn ở Hà Giang thì trong tổng số dân là 69.600 người, người Kinh chỉ có 1.000 người, tức 1,4%, so với 20.600 người Thổ hay 31%, còn lại là người Lô Lô, 30%, người Mán, 14%…
Các miền giáp ranh giữa các tỉnh này và các tỉnh miền Nam Trung Quốc do đó đã trở thành những vùng biên giới giữa hai nước. Sự tùy thuộc vào nước này hay nước kia một phần nằm trong tay các thổ tù trưởng tức các lãnh tụ của các dân địa phương và sự trung thành của họ từ đó tùy theo chính sách của chính quyền trung ương đối với họ. 
Về quan niệm chính trị của các triều đình liên hệ, vì là những miền đất ở xa kinh đô của cả hai nước Hoa, Việt, các vùng biên giới này được coi như những miền đất cơ my hay ky my là những miền đất làm phên giậu cho triều đình trung ương, một hình thức cai trị lỏng lẻo nhằm liên kết những miền đất xa xôi thay vì cai trị trực tiếp trong chế độ hành chánh thời cổ, ít nhất từ thời nhà Đường của Trung Quốc mà Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã tả rõ trong câu “Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài””. Các thổ tù trưởng do đó được cha truyền con nối cai trị lãnh thổ riêng của mình với điều kiện tuân phục triều đình trung ương. Vượt lên trên các địa phương, quan hệ giữa các triều đình Trung Quốc và các triều đình Việt Nam cũng mang tính cách phong kiến của Á Đông theo đó Việt Nam chỉ là một chư hầu của Trung Quốc, lãnh thổ Việt Nam cũng là lãnh thổ Trung Quốc. Điều này thường được thể hiện qua lời nói hay các thơ văn của các sứ giả Trung Quốc khi được các vua Việt Nam hỏi thăm về sức khỏe sau những cuộc hành trình tới kinh đô Việt Nam. Việt Nam thường được người Tàu gọi là Giao Chỉ, hiểu ngầm là Giao Chỉ Quận, là một quận của nước Tàu qua tước phong các vua Tàu phong cho các vua Việt Nam là Giao Chỉ Quận Vương kể từ thời Vương Liễn nhà Đinh, kèm theo với danh vị Tiết Độ Sứ là một chức quan của người Tàu, kể cả sau khi tước vị An Nam quốc vương đã được phong cho vua Lý vào năm 1174 và Việt Nam chính thức trở thành An Nam Quốc và kéo dài rất lâu về sau này. Thái độ phong kiến luôn luôn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận này đã giúp cho các hoàng đế Trung Quốc giữ được thể diện mỗi khi phải nhượng bộ và trao trả lại những đất mà họ đã chiếm của Việt Nam, vì theo họ, trong thiên hạ đất nào chẳng là đất của thiên tử. Rõ rệt nhất và gần với ta nhất là trong sắc văn của vua nhà Thanh viết vào năm Ung Chính thứ sáu, năm Bảo Thái thời Vua Dụ Tông nhà Lê (1728), gửi cho vua Việt Nam về việc trả lại vùng mỏ đồng Tụ Long cho Việt Nam, đoạn chính có viết:
“Mới đây Ngạc Nhĩ Thái (Tổng Đốc Vân Nam và Quý Châu thời đó) đem bản tâu của quốc vương ( vua Việt Nam thời đó) tiến trình, lời lẽ ý tứ trong bản tâu tỏ lòng cung kính, trẫm (vua Thanh) rất vui lòng khen ngợi.
Vả lại, 40 dặm ấy nếu thuộc vào Vân Nam thì là nội địa của trẫm, nếu thuộc vào An Nam thì vẫn là ngoại vi của trẫm, không có chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn cho đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương (vua Việt Nam) được đời đời giữ lấy.”
Nói cách khác sự phân chia biên giới giữa hai nước Hoa, Việt mang nặng tính cách lịch sử và quan niệm chính trrị cổ thời. Đó là những giới hạn có tính cách hành chánh nhiều hơn là phân ranh quốc tế. 
Chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ ở các miền biên giới của các triều đại quân chủ Việt Nam 
Chủ trương này được xác định rất rõ ngay từ thời nhà Lý qua bài thơ Nam Quốc Sơn Hà được truyền tụng là của Lý Thường Kiệt trong đó vị danh tướng này đã khẳng định sự cương quyết của triều đình nhà Lý là sẽ không dung tha bất cứ kẻ nào dám xâm phạm vào lãnh thổ nước mình. Nhưng đó là một thứ tuyên ngôn nói với người ngoài, với kẻ địch, một kẻ địch lớn hơn và mạnh hơn gấp bội nước Việt Nam thời đó. Lê Thánh Tông, bốn thế kỷ sau, năm 1474, khi dụ Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy là người ở trong nước đã nghiêm khắc khẳng định:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.”
Lời dụ này vừa là một nghiêm lệnh, vừa là một sách lược. Đó là không được nhượng bộ dù là nhượng một thước núi, một tấc sông, vì đó là của cha ông để lại, phải cương quyết tranh biện bảo vệ đến cùng không cho kẻ địch lấn dần ngay tự bước đầu tức là ở mức độ địa phương. Nếu kẻ địch không nghe thì triều đình sẽ sai sứ sang biện bạch phải trái theo phương thức ngoại giao. Còn kẻ nào dám đem dù là một tấc đất dâng cho giặc thì không phải chỉ là bị tử hình mà thôi, mà còn bị tru di nghĩa là giết ba họ nữa. Đây là hình phạt nặng nhất của thời quân chủ, một tội dành cho những kẻ khi quân, phản quốc. 
Thực thi chủ trương và đường lối kể trên, các nhà cầm quyền quân chủ Việt Nam đã phải cùng lúc đương đầu vừa với các thổ châu mục của mình, các quan lại địa phương Trung Quốc ở miền giáp ranh với những địa điểm tranh chấp vừa triều đình trung ương Trung Quốc. Đối với các thổ mục địa phương, các chính sách được dùng là vừa uyển chuyển, vừa khoan dung, phủ dụ, vừa kết thân, vừa cứng dắn, nghiêm khắc trừng phạt với mục tiên trước sau không đổi là giữ vững biên cương. Đối với các quan lại và triều đình Trung Quốc thì nhún nhường, khéo léo, lựa những danh sĩ thông minh, lanh lẹ, có tài biện luận, đồng thời kiên trì tranh đấu, không bỏ cuộc, cố gắng duy trì sự tranh chấp, không nhượng bộ để thiệt thòi cho nước mình hầu có thể đặt vấn đề lại sau này khi có cơ hội. 
Để bảo đảm sự trung thành của các thổ mục địa phương, ngoài chính sách cai trị lỏng lẻo, để cho các châu mục cha truyền, con nối như các họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng , họ Chu, họ Giáp, họ Thân, họ Hà, họ Đèo… tự trị trong các lãnh thổ của họ, các vua nhà Lý còn dùng hôn nhân để ràng buộc họ chặt chẽ hơn với triều đình trung ương, không phân biệt kinh thượng. Việc các vua nhà Lý gả các công chúa cho các châu mục miền núi đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam khá nhiều như năm 1029 Lý Thái Tông gả Công Chúa Bình Dương cho châu mục Lạng châu là Thân Thiện Thái, năm 1082, dưới thời Lý Nhân Tông, Công Chúa Khâm Thánh được gả cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh, năm 1142, dưới thời Lý Anh Tông, Công Chúa Thiều Dung được gả cho Dương Tự Minh là thủ lãnh châu Phú Lương, năm 1167, cũng dưới triều Lý Anh Tông, Công Chúa Thiên Cực đước gả cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung Hầu… Trước đó Tống Sử hay một sách khác thời nhà Tống cũng chép là tổ tiên của họ Thân, trước mang họ Giáp, là Giáp Thừa Quí lấy con gái của Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, con Thừa Quí là Thiệu Thái, lại lấy con gái của Đức Chính, tức Lý Thái Tông, rồi con Thiệu Thái là Cảnh Long, lại lấy con Nhật Tôn, tức Lý Thánh Tông… Ngược lại, Lý Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu Chân Đăng đưa về làm hoàng phi. 
Đối với những lãnh tụ đã làm phản như trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, các vua cũng tỏ ra rất khoan dung. Mở đầu, năm 1038, khi Nùng Tồn Phúc xưng đế chống lại triều đình , Lý Thái Tông thân chinh đi đánh bắt được Tồn Phúc đem về kinh xử trảm, con là Trí Cao và vợ là A Nùng chạy thoát được và trở về lập ra nước Đại Lịch, tiếp tục chống lại vào năm 1041. Lý Thái Tông lại thân chinh đi đánh, bắt được Trí Cao nhưng thương tình cha và anh đã bị giết nên không những tha cho về lại còn sai sứ đến tận nơi phong hàm thái bảo. Sau đó mẹ con Trí Cao lại xưng đế, làm phản, chống lại cả hai triều Tống ,Việt nhưng cuối cùng bị đánh thua phải bỏ chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đó. Hai lần làm đại nghịch nhưng các triều đình Việt Nam đương thời và sau này vẫn tỏ ra rất khoan nhượng với họ Nùng và những người liên hệ, bằng cớ là ở Cao Bằng các vua Việt Nam vẫn để cho người địa phương lập đền thờ cả hai mẹ con Nùng Trí Cao. Hai đền này nằm trên hai ngọn núi trong số bốn ngọn bao bọc chung quanh tỉnh Cao Bằng là núi Kỳ Cầm ở phía bắc (đền thờ Nùng Trí Cao), và núi Kim Phả ở phía đông (đền thờ A Nùng, gọi là dền Bà Hoàng), cho đến năm 1930 hãy còn.Chính sách được goi là hòa thân này cộng thêm với vị trí gần gũi với kinh đô Thăng Long của người Việt hơn là kinh đô của người Tàu và chắc chắn các đường tiếp tế các sản phẩm của miền đồng bằng và miền biển, nhất là muối từ châu thổ Sông Hồngchắc chắn đã là những tác tố vô cùng trọng yếu của sự trung thành của các châu mục với các triều đình Việt Nam hơn là với triều đình Trung Quốc. 
Trong cách tranh biện để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, người ta thấy công tác đã được thực hiện ở hai cấp địaphương và trung ương. Ở địa phương các thổ mục đóng vai trò chính yếu . Vì là người địa phương, họ nắm vững tình hình từ địa lý thiên nhiên qua từng con sông, từng ngọn suối, từng trái đồi, từng cột mốc… đến tình hình dân cư với những ruộng nương, nhà cửa, đền thờ của họ, biết rành rẽ hơn những quan lại được cử từ miền xuôi lên . Không những thế, vì được tự trị, những lãnh thổ được trao cho họ được họ coi là phải cẩn trọng giữ gìn. Chỉ đến khi cần phải tranh luận phải trái giữa hai triều đình trung ương, vai trò của các nhà trí thức, các sứ thần mới được đặt ra. 
Một số những cuộc tranh chấp điển hình 
Với chủ trương bảo vệ từng thước núi, từng tấc sông, các triều đại quân chủ Việt Nam một mặt đã cương quyết đấu tranh để bảo vệ những phần đất đã có, mặt khác đã kiên trì đòi lại những lãnh thổ đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm, ngoại trừ hai trường hợp nhượng đất quá nhiều dưới thời Hồ Quí Ly hay dâng đất dưới thời Mạc Đăng Dung. Cả hai trường hợp này, đặc biệt là trường hợp Mạc Đăng Dung, những người chủ trương đã bị hậu thế lên án nặng nề. Cả hai triều đại này đều bị gọi là ngụy, không phải chỉ vì có nguồn gốc là do sự thoán nghịch mà ra mà còn là vì những hành động bị coi như là phản quốc nữa. Tác giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược, đã viết về Mạc Đăng Dung như sau:
”Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ…. Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được.”
Trên bình diện tích cực, trong phần cuối của bài này, ta nhìn lại ba trường hợp điển hình trong đó các vua quan Việt Nam nói riêng, và người Việt Nam nói chung, đã tỏ ra hết sức kiên nhẫn, khôn ngoan mềm mỏng và cương quyết trong công cuộc bảo vệ biên cương của nước mình. Đó là là các cộc đấu tranh để đòi lại châu Quảng Nguyên, các châu Vật Dương, Vật Ác thời nhà Lý và vùng mỏ đồng Tụ Long trong những giai đoạn sau này. 
Quảng Nguyên là tên cũ của một châu thuộc tỉnh Cao Bằng, từ thời nhà Lê đước đổi thành Quảng Uyên. Dưới nhà Lý, để trả đũa việc Lý Thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh các châu Khâm, châu Liêm và châu Ung thuộc các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc vào năm 1075, năm 1076 nhà Tống sai Quách Quì sang đánh Đại Việt . Bị quân Đại Việt chống trả kịch liệt lại không hợp thủy thổ, quân Tống bị thiệt hại nặng nề phải rút lui, nhưng vẫn giữ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô, Mậu và huyện Quang Lang. Trong số các châu huyện này Quang Lang và Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả vì Quang Lang, sau này được nhà Lê đổi là Ôn Châu là cổ họng của châu Ung, còn Quảng Nguyên là nơi có nhiều mỏ vàng và mỏ bạc. Để thu hồi lại hai châu này, nhà Lý đã dùng cả quân sự lẫn ngoại giao. Huyện Quan Lang đã được Lý Thường Kiệt chiếm lại không lâu sau đó, có lẽ cùng lúc với các châu Tô Mậu và Môn. Riêng châu Quảng Nguyên, việc đòi lại phức tạp hơn vì khả năng sản xuất vàng bạc của địa phương này. Ở đây đường lối ngoại giao đã được sử dụng. Hai lần nhà Lý đã sai sứ bộ sang thương nghị. Lần thứ nhất không thành công vì các quan địa phương nhà Tống viện cớ lời biểu của vua Lý có dùng chữ húy của triều Tống không nhận. Lần thứ hai, sứ bộ do Đào Tông Nguyên cầm đầu, đem theo năm con voi làm đồ cống với lời yêu cầu nhà Tống trả lại các đất quân Tống đã chiếm. Nhà Tống ưng thuận với đìều kiện nhà Lý trả lại tất cả những dân các châu Khiêm, Liêm và Ung đã bị quân của Lý Thường Kiệt và Tôn Đản bắt về Đại Việt trước đó. Nhà Lý ưng thuận và Quảng Nguyên đã trở về với Đại Việt. Sự hoàn trả Quảng Nguyên cho Đại Việt đã làm cho nhiều người bên nhà Tống bất mãn. Hai câu thơ châm biếm: Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim có nghĩa là vì tham voi Giao Chỉ nên mất vàng Quảng Nguyên mà các tác giả của Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca dịch sang thơ là Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên đã được họ làm trong trường hợp này. Thắng lợi này xảy ra vào năm 1079 dưới thời Lý Nhân Tông. 
Thành công trong việc đòi lại châu Quảng Nguyên và một số đất khác ít năm sau, Việt nam đã không thành công trong việc đòi lại các động Vật Dương, Vật Ác từ trước đã bị các thổ mục họ Nùng dâng cho nhà Tống, mặc dầu sứ bộ nhà Lý do Lê Văn Thịnh, vị thủ khoa của khoa thi đầu tiên của người Việt cầm đầu đã tranh luận gay gắt. Phản bác lại chủ trương của các quan nhà Tống cho rằng các đất này là của Tống vì do các thổ mục địa phương dâng cho nhà Tống vì họ qui phục nhà Tống., Lê văn Thịnh lý luận rằng
”Đất thì có chủ; bọn thuộc lại giữ đất đem dâng nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất cho chủ lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được, mà ăn hối lộ và tàng trữ của ăn trộm pháp luật cũng không dung. Huống chi, bọn chúng lại có thể làm nhơ bẩn cả sổ xác của quí vị hay sao?”
Không những quyết tâm bảo vệ lập trường, các vua quan Đại Việt còn tỏ ra rất kiên trì. Các cuộc thương nghị đã diễn ra cả thảy sáu lần nhưng đều bị nhà Tống khước từ, cuối cùng đã bị bỏ dở. 
Thắng lợi trong việc đòi lại được mỏ đồng Tụ Long xảy ra vào năm 1728, năm Bảo Thái thứ 9, thời Vua Lê Dụ Tông* tương xứng với năm Ung Chính thứ 6 của nhà Thanh. Thắng lợi này có thể coi là điển hình nhất trong nỗ lực bảo vệ lãnh thổ của các triều đại quân chủ Việt Nam mà người viết đã trình bày trong phần chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ của các triều đại quân chủ trên đây. Trong số những chủ trương và sách lược này có sự cương quyết không bao giờ nhượng bộ, sự kiên trì, không nhất thời, vội vã, biết chờ cơ hội nhằm khai thác những hoàn cảnh khó khăn của triều đình Trung Quốc qua nội tình bất ổn ở ngay trong lãnh thổ hay ở các vùng biên giới phía bắc hay phía tây của họ, đồng thời luôn luôn khéo léo, mềm mỏng, nhún nhường nhằm biến vị thế yếu kém của một nước chư hầu và tâm lý tự cao, tự đại của triều đình Trung Quốc trong quan hệ phong kiến Đông phương thành lợi thế để thu lại phần lợi cho mình trong khi luôn luôn tôn trọng các sắc dân thiểu số ở địa phương, cùng các quyền lợi truyền thống của họ, tránh không để cho ngưòi từ trung ương đến lến át họ. Cần để ý là người được cử từ trung ương tới sẽ đến và đi do đó dễ bị hối lộ mua chuộc hay đe dọa còn các thủ lãnh địa phương thi sống chết với dân của họ.
* trong bài gốc là Trần Dụ Tông, nay nghiencuulichsu chỉnh lại
Được sáng tạo bởi bàn tay và ý tưởng của người Việt, Dinh Thống Nhất đã trở thành một trong những biểu tượng của TP HCM và là điểm đến yêu thích của nhiều du khách mỗi khi đặt chân đến thành phố này.
Dinh Thống Nhất hay Dinh Độc Lập là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng ở Sài Gòn. Năm 2009, Dinh Thống Nhất được định xếp hạng là một trong 10 di tích quốc gia đặc biệt đầu tiên của cả nước. Đây là một trong những địa chỉ tham quan thú vị của TP HCM, hàng ngày đón tiếp hàng ngàn lượt khách tham quan. Ngoài ra, dinh còn là nơi đón tiếp các vị khách cấp quốc gia.
Công trình dinh được thiết kế bởi Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ - người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đạt giải thưởng Khôi Nguyên La Mã về thể loại kiến trúc. Ông đã kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại và kiến trúc truyền thống phương Đông vào công trình.
Khởi công ngày 1/7/1962, khánh thành ngày 31/10/1966, Dinh Thống nhất được xây trên nền của Dinh Toàn quyền Đông Dương (còn gọi là Dinh Norodom do người Pháp thiết kế vào năm 1868). Công trình được xây dựng trong khuôn viên rộng 12 ha, diện tích sử dụng là 20.000 m2, gồm 3 tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng và tầng hầm. Dinh có khoảng 100 phòng được trang trí theo phong cách khác nhau tùy vào công năng sử dụng.



Phía trước Dinh là những thảm cỏ xanh non hình oval, chính giữa là đài phun nước, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng cho khối công trình và màu xanh của cỏ tạo ra một cảm giác sảng khoái êm dịu cho du khách ngay khi bước vào cổng chính. Điểm nhấn độc đáo này luôn được du khách làm vài tấm ảnh lưu niệm để lấy toàn bộ khối dinh đằng sau. Bước qua thảm cỏ là hồ nước hình bán nguyệt chạy dài theo mặt trước của đại sảnh. Trong hồ được trồng hoa súng, hoa sen gợi nên hình ảnh yên ả, tĩnh lặng như ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Khi thiết kế, kiến trúc sư muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự trang trí, xếp đặt về mặt tổng thể từ nội thất cho đến tiền diện bên ngoài đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, văn hóa phương Đông và cá tính của dân tộc Việt. Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được tô điểm thêm bởi những bức phù điêu và bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao trọn mặt tiền lầu hai.
Mỗi bức phù điêu là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa có tác dụng trang trí vừa để nối liền các cửa sổ phía trên và phía dưới tạo thành một khối làm tăng vẻ đẹp bên ngoài. Các bức rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế, không chỉ làm vật trang trí để tăng vẻ đẹp, những bức hoa đá còn có chức năng đón nhận và che khuất ánh sáng cùng với gió trời tự nhiên một cách hợp lý hài hòa.
Bước vào bên trong Dinh ta sẽ thấy tất cả các đường nét kiến trúc đều được phân phối một cách hợp lý, hài hòa. Trong mỗi phòng đều trưng bày các bức tranh về non sông, đất nước, con người Việt Nam hay các sự kiện lịch sử nổi tiếng của cha ông như bức “Việt Nam Quốc tổ", “Cẩm tú sơn hà”, “Vua Trần Nhân Tông dạo chơi” hay bức sơn mài “Bình Ngô Đại Cáo”. Mỗi bức tranh, mỗi vật dụng trang trí đều có ý nghĩa nhất định và làm tăng thêm vẻ đẹp thanh tao, trang nhã cho toàn bộ khối công trình. 
Ngoài những giá trị mang tính lịch sử, Dinh Thống Nhất luôn là điểm tham quan thú vị của nhiều du khách trong và ngoài nước, đến đây du khách sẽ được dạo chơi trong một khuôn viên đầy ắp những mảng xanh mát lành, chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo và tìm hiểu thêm những giá trị lịch sử của dinh trong thời kỳ trước và sau 1975. Ngoài ra du khách còn có thể mua thêm những món quà xinh xắn được khắc họa thông qua kiểu dáng, kiến trúc của dinh./.
dulichhue.com.vn